Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng là một trong những tội danh được quy định tại Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Việc hiểu đúng dấu hiệu cấu thành, mức độ thiệt hại và điều kiện truy cứu là yếu tố then chốt để bảo vệ quyền lợi của người bị khởi tố. Bài viết sau của Luật Long Phan PMT sẽ hướng dẫn cách nhận diện đúng dấu hiệu cấu thành tội, phân biệt ranh giới giữa xử phạt hành chính và truy cứu hình sự, cũng như các hướng bào chữa quan trọng để đảm bảo quyền lợi của Quý khách.

Dấu hiệu cấu thành tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Tội “vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” được quy định tại Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Khi xem xét một người có phạm tội hay không, cơ quan điều tra sẽ đánh giá bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Việc hiểu rõ bốn yếu tố này giúp bị cáo và gia đình biết được vì sao bị khởi tố và điểm nào có thể bào chữa hoặc xin giảm nhẹ.
- Khách thể: hành vi phạm tội xâm phạm đến chế độ quản lý nhà nước đối với kế toán. Kế toán là hoạt động thu thập, ghi chép, xử lý và cung cấp thông tin tài chính của đơn vị. Khi chứng từ, sổ sách hoặc báo cáo tài chính bị làm sai lệch, hành vi đó ảnh hưởng trực tiếp đến tính minh bạch và trung thực của hoạt động kế toán.
- Chủ thể: phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Tuy nhiên, theo Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) yêu cầu chủ thể đặc biệt, tức là người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ kế toán và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để thực hiện hành vi vi phạm. Trong một số trường hợp, người không có chức vụ nhưng cùng tham gia với người có chức vụ để thực hiện hành vi vi phạm vẫn bị xem là đồng phạm. Một điểm rất quan trọng là nếu thiệt hại dưới 100 triệu đồng, chỉ khi người đó đã từng bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi kế toán mà chưa được xóa, nhưng vẫn tiếp tục vi phạm, thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này có nghĩa là nếu người vi phạm chưa từng bị xử phạt hoặc đã được xóa, và thiệt hại dưới 100 triệu đồng, thì không đủ điều kiện để khởi tố hình sự.
- Chủ quan: được thể hiện ở lỗi cố ý. Người phạm tội phải biết rõ hành vi của mình là sai, biết rõ có thể gây thiệt hại nhưng vẫn thực hiện. Tuy nhiên, trong thực tế kế toán, nhiều sai sót xảy ra do nhầm lẫn nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm, làm theo chỉ đạo cấp trên hoặc không hiểu hết quy định. Những trường hợp này có thể chứng minh người thực hiện không có lỗi cố ý, từ đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 10 và Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Đây là hướng bào chữa quan trọng, đặc biệt khi kế toán chỉ làm theo phân công hoặc không nhận thức được hậu quả.
- Khách quan của tội phạm là yếu tố quan trọng nhất. Theo khoản 1 Điều 221 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người phạm tội phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn và thực hiện một trong các hành vi như:
- Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
- Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
- Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
- Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ theo quy định của Luật kế toán;
- Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
Tuy nhiên, chỉ có hành vi thôi là chưa đủ. Phải có thêm yếu tố hậu quả, cụ thể là thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên, hoặc thiệt hại dưới 100 triệu nhưng người vi phạm đã từng bị xử phạt hành chính hoặc kỷ luật về hành vi này mà chưa được xóa. Nếu thiệt hại nhỏ, đã khắc phục toàn bộ hoặc không có hậu quả thực tế, hành vi thường được xử lý theo Nghị định 41/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 102/2021/NĐ-CP) thay vì xử lý hình sự.

Ngưỡng phân định giữa xử lý hình sự và xử phạt hành chính khi vi phạm quy định về kế toán
Trong thực tế khi áp dụng Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), không phải mọi vi phạm về kế toán đều bị xử lý hình sự. Nhiều trường hợp, hành vi của kế toán không đủ mức độ nghiêm trọng để cấu thành tội phạm, đặc biệt khi thiệt hại nhỏ, chưa gây hậu quả đáng kể hoặc người vi phạm đã tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại. Khi đó, cơ quan chức năng thường xem xét xử lý theo hướng xử phạt vi phạm hành chính thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cơ sở pháp lý để xử phạt hành chính trong lĩnh vực kế toán là Nghị định 41/2018/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 102/2021/NĐ-CP. Hai nghị định này quy định rõ các hành vi vi phạm kế toán và mức phạt tương ứng, nên thường được dùng để xử lý những trường hợp chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm như: thiệt hại dưới mức định lượng hình sự; hành vi chỉ là sai sót nghiệp vụ, không gây hậu quả lớn; hoặc người vi phạm đã chủ động khắc phục thiệt hại, hợp tác tốt và thành khẩn.
Như vậy, khi hành vi vi phạm quy định về kế toán không gây thiệt hại đủ ngưỡng hình sự (dưới 100 triệu đồng và trước đó chưa từng bị xử phạt hành chính hoặc kỷ luật về hành vi tương tự), hoặc người vi phạm đã khắc phục xong toàn bộ hậu quả, thì việc xử lý theo hướng phạt hành chính theo Nghị định 41/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 102/2021/NĐ-CP) là phù hợp. Đây cũng là căn cứ quan trọng để đề nghị cơ quan tố tụng xem xét không xử lý hình sự, giúp giảm nhẹ tối đa hậu quả pháp lý cho người vi phạm.
>>>> Xem thêm: Giả mạo khai man chứng từ kế toán bị xử lý như thế nào
Mức hình phạt theo quy định đối với tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017, 2025) quy định 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung đối với tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng. Cụ thể như sau:
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng khi người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi như:
- Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
- Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
- Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
- Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ theo quy định của Luật Kế toán;
- Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
Gây thiệt hại từ 100 triệu đến dưới 300 triệu, hoặc gây thiệt hại dưới 100 triệu nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm
Khung 2: Phạt từ từ 03 đến 12 năm áp dụng khi thực hiện một trong những trường hợp sau:
- Vì vụ lợi;
- Có tổ chức;
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
- Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm khi phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.
Khung hình phạt bổ sung: Ngoài các hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm
- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
>>>> Xem thêm: Kế toán trưởng có chịu trách nhiệm cho thất thoát tài sản công ty
Các hướng bào chữa khi bị khởi tố tôi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người bị khởi tố, việc xác định đúng hướng bào chữa là bước then chốt. Dưới đây là các hướng bào chữa khi bị khởi tố:
Không đồng ý về tội danh
Khi bị cáo hoặc gia đình cho rằng việc khởi tố theo Điều 221 Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2017, 2025) là chưa phù hợp, hướng bào chữa đầu tiên và quan trọng nhất là đấu tranh trực tiếp vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm đã phân tích ở mục “Dấu hiệu cấu thành tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Bởi lẽ, chỉ cần một trong bốn yếu tố (khách thể – chủ thể – chủ quan – khách quan) không thỏa mãn, thì hành vi không thể bị coi là tội phạm vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
Đồng ý về tội danh nhưng xin xem xét chuyển khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
Khi thực sự có hành vi vi phạm và hành vi này đủ điều kiện cấu thành của tội thì có thể định hướng bào chữa là đồng ý tội danh nhưng xin xem xét chuyển khung hình phạt liền kề nhẹ hơn. Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Theo đó, điều kiện để xin xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là:
- Người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); hoặc .
- Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung, và không bắt buộc phải nằm trong khung liền kề nhẹ hơn đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
- Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng ngay cả khi bị cáo đồng ý với tội danh, vẫn có cơ sở pháp lý vững chắc để đề nghị Tòa án chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn, hoặc áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung. Đây là hướng bào chữa hợp lý, nhân văn và thường mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn, đặc biệt đối với các vụ án kế toán mà bị cáo không có mục đích vụ lợi, đã khắc phục hậu quả và có nhân thân tốt.
Đồng ý về tội danh, đồng ý về khung hình phạt nhưng xin giảm nhẹ hình phạt
Theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết sau đây:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Các tình tiết giảm nhẹ trên được hướng dẫn cụ thể tại Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP.
Ngoài các tình tiết được liệt kê cụ thể, khoản 2 Điều 51 được hướng dẫn cụ thể tại Điều 3 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP còn cho phép Tòa án xem xét những tình tiết khác như hoàn cảnh gia đình đặc biệt, bị cáo có đóng góp cho xã hội, hoặc có thái độ hợp tác tốt trong quá trình điều tra. Những tình tiết này phải được ghi rõ trong bản án và có thể giúp bị cáo được giảm nhẹ đáng kể.
>>> Xem thêm: Mức án cho tội tham ô trong công ty ngoài quốc doanh

Tài liệu chứng cứ khuyến nghị cần thu thập
Để làm rõ bản chất sự việc và bảo vệ tốt nhất quyền lợi của bị cáo, cần tiến hành thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ liên quan sau nhằm chứng minh đúng vai trò, trách nhiệm và mức độ tham gia của bị cáo trong vụ án:
- Chứng cứ về chức năng, nhiệm vụ: quyết định bổ nhiệm; hợp đồng lao động; mô tả công việc; quy chế tài chính – kế toán của đơn vị; sơ đồ phân quyền, phân nhiệm; giấy ủy quyền (để thể hiện rằng không “lợi dụng chức quyền”); quy trình phê duyệt chứng từ, quy trình nhập liệu.
- Hồ sơ kế toán: sổ sách kế toán; chứng từ gốc (hóa đơn, phiếu thu – chi, phiếu nhập – xuất); nhật ký chỉnh sửa; lịch sử thao tác (log) trên phần mềm kế toán; quy trình lưu trữ – tiêu hủy tài liệu; biên bản kiểm kê tài sản; biên bản làm việc giữa các bộ phận liên quan; tài liệu chứng minh ai là người phê duyệt cuối cùng.
- Tài liệu về chuẩn mực kế toán và quy định áp dụng tại thời điểm: quy chế nội bộ của đơn vị; hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan chủ quản; tài liệu chứng minh đơn vị áp dụng quy trình riêng (nếu có); đối chiếu với Luật Kế toán và các văn bản hướng dẫn tại thời điểm xảy ra vụ việc.
- Tài liệu giám định/ định giá: trưng cầu giám định kế toán – tài chính; kết luận giám định; kết luận định giá thiệt hại; tài liệu chứng minh đã khắc phục, bồi thường, bị thu hồi tài sản; tài liệu chứng minh thiệt hại thực tế thấp hơn cáo buộc.
- Chứng cứ về dòng tiền và mục đích sử dụng: sao kê ngân hàng chứng minh tiền không vào túi cá nhân, chứng minh tiền được sử dụng đúng mục đích của đơn vị; đối chiếu công nợ; biên bản đối chiếu với bên thứ ba.
- Tài liệu về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ: bằng khen, giấy khen; giấy xác nhận đóng góp cho cộng đồng; giấy xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn; giấy xác nhận bị cáo là lao động chính; giấy xác nhận đã khắc phục hậu quả; tài liệu chứng minh bị cáo có nhân thân tốt, chưa từng vi phạm.
- Hồ sơ xử phạt hành chính trước đây (nếu có): quyết định xử phạt hành chính; quyết định kỷ luật; tài liệu chứng minh đã được xóa hoặc chưa được xóa; tài liệu chứng minh chưa từng bị xử phạt (nếu cần). Nhóm chứng cứ này giúp xác định bị cáo có thuộc trường hợp “thiệt hại dưới 100 triệu và chưa từng bị xử phạt”.
Việc thu thập đầy đủ các tài liệu nêu trên sẽ giúp làm sáng tỏ bản chất sự việc, xác định đúng trách nhiệm của từng cá nhân và tạo cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án.
Dịch vụ Luật sư bào chữa tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Luật sư Long Phan PMT sẽ hỗ trợ Quý khách hàng trong việc:
- Tư vấn hành vi liên quan đến vi phạm và trách nhiệm pháp lý tương ứng với từng hành vi.
- Tư vấn các quy định, mức xử lý vi phạm hành chính, mức phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả.
- Đánh giá mức độ vi phạm và đưa ra phương án bảo vệ, bào chữa pháp phù hợp theo quy định pháp luật.
- Bảo vệ, bào chữa trong cho bị can, bị cáo khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
>>> Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa cho tội phạm kinh tế
Câu hỏi thường gặp đối với hành vi “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”
Sau đây là phần giải đáp cho một số câu hỏi pháp lý thường gặp đối với hành vi “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”
Người làm kế toán chỉ thực hiện theo chỉ đạo của cấp trên thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Kế toán chỉ làm theo chỉ đạo của cấp trên không đương nhiên bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) chỉ áp dụng đối với chủ thể đặc biệt, tức người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ kế toán và lợi dụng quyền hạn đó để vi phạm. Nếu kế toán chỉ thực hiện theo phân công, không có quyền quyết định cuối cùng và không phê duyệt chứng từ, thì họ không phải chủ thể của tội danh. Đồng thời, tội này đòi hỏi lỗi cố ý theo Điều 10 và Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), nên nếu kế toán không nhận thức được hậu quả hoặc chỉ làm theo mệnh lệnh thì không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Khi nào bị cáo có thể xin Tòa án được chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn?
Việc xin chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn được áp dụng khi bị cáo có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Khi đáp ứng điều kiện này, Tòa án có quyền áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) để xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đang bị truy tố và chuyển sang khung liền kề nhẹ hơn. Cơ chế này đặc biệt phù hợp trong các trường hợp bị cáo có nhân thân tốt, không có mục đích vụ lợi và đã tự nguyện khắc phục hậu quả. Việc chuyển khung cũng được xem xét khi mức độ nguy hiểm của hành vi không lớn và không cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc. Đây là hướng bào chữa quan trọng giúp giảm đáng kể trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong các vụ án kế toán.
Nếu người vi phạm đã tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại thì cơ quan tố tụng có còn truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
Việc đã khắc phục toàn bộ thiệt hại không đương nhiên làm chấm dứt trách nhiệm hình sự, vì Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) vẫn yêu cầu xem xét đầy đủ hành vi, lỗi và mức độ thiệt hại. Tuy nhiên, nếu thiệt hại dưới 100 triệu đồng và người vi phạm chưa từng bị xử phạt hành chính hoặc kỷ luật về kế toán, thì việc đã khắc phục toàn bộ hậu quả là căn cứ quan trọng để không truy cứu hình sự, mà chỉ xử phạt hành chính theo Nghị định 41/2018/NĐ-CP (sửa đổi 102/2021/NĐ-CP). Trường hợp thiệt hại đủ định lượng hình sự, việc khắc phục toàn bộ vẫn được xem là tình tiết giảm nhẹ rất mạnh theo Điều 51 BLHS, giúp bị cáo được áp dụng mức phạt thấp nhất hoặc xem xét Điều 54 để xử dưới khung. Vì vậy, khắc phục hậu quả là yếu tố có giá trị lớn trong việc giảm nhẹ hoặc tránh truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo mức thiệt hại và tiền lệ xử lý của người vi phạm.
Trong những trường hợp nào hành vi vi phạm quy định về kế toán chỉ bị xử phạt hành chính thay vì bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Hành vi kế toán chỉ bị xử phạt hành chính khi không đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tức là thiệt hại dưới 100 triệu đồng và người vi phạm chưa từng bị xử phạt hành chính hoặc kỷ luật về hành vi kế toán trước đó. Trong các trường hợp hành vi chỉ là sai sót nghiệp vụ, nhầm lẫn, thiếu kinh nghiệm, không gây hậu quả đáng kể hoặc người vi phạm đã tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại, cơ quan chức năng sẽ áp dụng Nghị định 41/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 102/2021/NĐ-CP) để xử phạt hành chính thay vì truy cứu hình sự. Đây là ranh giới quan trọng giúp xác định khi nào hành vi vi phạm kế toán chỉ dừng lại ở mức xử phạt hành chính và không bị xem là tội phạm.
Kết luận
Tội “vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” chỉ đặt ra khi người thực hiện có lỗi cố ý, lợi dụng chức vụ hoặc nhiệm vụ kế toán, và gây thiệt hại đủ định lượng hình sự theo Điều 221 BLHS. Nếu hành vi chỉ là sai sót nghiệp vụ, thiệt hại nhỏ, đã khắc phục toàn bộ hoặc chưa từng bị xử phạt trước đó, thì không đủ căn cứ truy cứu hình sự và chỉ bị xử phạt hành chính. Trong trường hợp bị truy tố, việc chứng minh đúng vai trò, mức độ lỗi và các tình tiết giảm nhẹ là yếu tố quyết định để giảm nhẹ hoặc chuyển khung hình phạt. Nếu Quý khách còn thắc mắc, vui lòng liên hệ hotline 1900.63.63.87 để được Luật Long Phan PMT tư vấn và hỗ trợ giải quyết một cách chi tiết và hiệu quả nhất.
Tags: Bào chữa hình sự, Vi phạm quy định về kế toán, Xử lý hình sự, Xử phạt vi phạm hành chính kế toán

Lưu ý: Nội dung bài viết công khai tại website của Luật Long Phan PMT chỉ mang tính chất tham khảo về việc áp dụng quy định pháp luật. Tùy từng thời điểm, đối tượng và sự sửa đổi, bổ sung, thay thế của chính sách pháp luật, văn bản pháp lý mà nội dung tư vấn có thể sẽ không còn phù hợp với tình huống Quý khách đang gặp phải hoặc cần tham khảo ý kiến pháp lý. Trường hợp Quý khách cần ý kiến pháp lý cụ thể, chuyên sâu theo từng hồ sơ, vụ việc, vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua các phương thức bên dưới. Với sự nhiệt tình và tận tâm, Chúng tôi tin rằng Luật Long Phan PMT sẽ là nơi hỗ trợ pháp lý đáng tin cậy của Quý khách hàng.