Quyền im lặng của bị can bị cáo trong vụ án hình sự

Quyền im lặng của bị can bị cáo trong vụ án hình sự được xem là một vấn đề pháp lý quan trọng. Trong một số vụ án hình sự được dư luận xã hội quan tâm gần đây đã triệt để sử dụng quyền im lặng. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền im lặng vẫn chưa được thực hiện một cách triệt để. Sau đây, Chúng tôi sẽ thông tin cụ thể về quyền im lặng trong vụ án hình sự thông qua bài viết dưới đây.

Quyền im lặng của bị cáo trong vụ án hình sự

Quyền im lặng của bị cáo trong vụ án hình sự

Quyền im lặng của bị can bị cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

  • Quyền im lặng của bị can, bị cáo chưa được ghi nhận trực tiếp và trở thành một điều luật độc lập nhưng xét về mặt nội dung quyền im lặng được gián tiếp ghi nhận trong Hiến pháp 2013, các văn bản như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và các văn bản dưới luật khác.
  • Tại điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Khoản 3 Điều 309 Bộ luật này cũng có quy định nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
  • Bị cáo có quyền im lặng tính từ thời điểm Tòa án quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, cho đến khi Tòa án thực hiện các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.

>>>Xem thêm: Lời nhận tội của bị can, bị cáo có được xem là chứng cứ không

Ưu điểm và hạn chế khi sử dụng quyền im lặng

Ưu điểm khi sử dụng quyền im lặng

  • Thực hiện quyền im lặng không chỉ là một trong những đảm bảo tố tụng quan trọng mà còn là quyền con người đã được ghi nhận từ hơn hai thế kỷ trước.
  • Bị can, bị cáo hoàn toàn có quyền im lặng do đó việc bị can, bị cáo không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những điều bất lợi cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng. Hơn nữa, Bộ luật Hình sự hiện hành không coi người bị buộc tội không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những vấn đề bất lợi cho bản thân, không buộc phải nhận tội hay “không thành khẩn khai báo” là tình tiết tăng nặng.
  • Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó có tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” (điểm s). Mục 3 Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử trong đó có giải thích về tình tiết thành khẩn khai báo: “Tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra”.
  • Quyền im lặng không loại trừ tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo”. Quyền im lặng của bị can, bị cáo nghĩa là không đưa ra các lời khai chống lại chính mình và không buộc nhận mình có tội. Bị can, bị cáo có quyền trình bày các thông tin, tình tiết liên quan đến vụ án, giúp cơ quan điều tra nhanh chóng tìm ra sự thật. Chỉ đối với những tình tiết chống lại mình và việc nhận tội danh, bị can, bị cáo có quyền im lặng. Như vậy bị can, bị cáo vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ nêu trên.

Hạn chế khi sử dụng quyền im lặng

  • Việc không trực tiếp quy định quyền im lặng cho người bị buộc tội là một thiếu sót nghiêm trọng của pháp luật tố tụng hình sự nước ta.
  • Quy định của pháp luật hiện hành vẫn coi trọng địa vị pháp lý của người tiến hành tố tụng trong khi địa vụ của người bào chữa chưa hoàn toàn được độc lập với các chủ thể khác.
  • Phiên tòa xét xử hình sự còn nặng về “xét hỏi” làm cơ quan buộc tội không chủ động tranh luận, trong khi Tòa án không phát huy vai trò “trọng tài” chứng kiến, xem xét cuộc tranh luận và vẫn coi là một bên của tranh luận thì quyền bào chữa của bị cáo sẽ không được thực hiện trên thực tế. Do đó, mặc dù pháp luật đã trao cho bị cáo quyền chủ động, tích cực tham gia phiên tòa, sử dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho mình nhưng trước thực trạng trên, một số bị cáo sử dụng quyền im lặng của mình một cách thụ động như thực hiện quyền “không khai báo” khi Hội đồng xét xử xét hỏi.

Ưu điểm và hạn chế khi sử dụng quyền im lặng

Ưu điểm và hạn chế khi sử dụng quyền im lặng

>>>Xem thêm: Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ để điều tra hình sự

Bất cập pháp luật trong điều chỉnh quyền im lặng của bị can, bị cáo

Chưa có cơ chế bảo vệ người bị bắt, bị tạm giữ

  • Điều 58, 59 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định, người bị bắt và người bị tạm giữ có quyền được giải thích về quyền của họ, trong đó có quyền im lặng. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 lại không đề cập đến thời điểm thực hiện sự giải thích, thông báo quyền.
  • Theo quy định của Điều 95 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, một trong các nguồn chứng cứ là lời khai của người bị bắt và người bị tạm giữ. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 lại không quy định về thể thức, trình tự, thủ tục của việc lấy lời khai này. Như vậy, liệu việc lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ có cần phải thực hiện các đảm bảo pháp lý như phổ biến quyền cho họ hay thực hiện thủ tục ghi âm, ghi hình hay không vẫn là những câu hỏi chưa được trả lời.

Cơ chế đánh giá lời khai vẫn nặng tính áp đặt

  • Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì chứng cứ nào được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do luật định thì đương nhiên sẽ đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ. Điều này dẫn đến một số điểm hạn chế và mâu thuẫn với quyền im lặng của người bị buộc tội. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định người bị buộc tội có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Như vậy, yếu tố không bị ép buộc, hay còn gọi là tính tự nguyện là yếu tố cơ bản nhất của quyền im lặng. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 hoàn toàn không có điều khoản nào đề cập đến tính tự nguyện và mức độ chất lượng của sự tự nguyện trong đánh giá lời khai của người bị buộc tội.
  • Từ phân tích trên cho thấy, bên cạnh việc nhấn mạnh đến tính hợp pháp của chứng cứ, quy định của pháp luật TTHS hiện hành còn thiếu quy định về các tiêu chuẩn pháp lý riêng dành cho lời khai nhằm phù hợp với điểm đặc thù của loại chứng cứ này.
  • Giá trị pháp lý của các chứng cứ được thu thập dựa trên thông tin có từ lời khai được đánh giá là bất hợp pháp sẽ được nhìn nhận như thế nào. Có thể thấy rằng, trong một vài trường hợp, cán bộ điều tra có thể chấp nhận không tuân theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm lấy được những lời khai mang giá trị thông tin, từ đó dẫn dắt họ đến các loại chứng cứ khác có giá trị trong vụ án. Như vậy, nếu căn cứ theo quy định pháp luật, thì chỉ lời khai ban đầu là không có giá trị pháp lý vì đã không tuân thủ trình tự thủ tục, còn các loại chứng cứ khác được thu thập theo đúng trình tự thủ tục dựa trên lời khai đó vẫn được xem xét như chứng cứ. Việc quy định như vậy dễ dẫn đến tình trạng chấp nhận đánh đổi lời khai vô giá trị lấy các chứng cứ khác của cán bộ điều tra, và từ đó xâm phạm đến quyền im lặng của người bị buộc tội.

Bất cập của pháp luật khi điều chỉnh quyền im lặng của bị can bị cáo

Bất cập của pháp luật khi điều chỉnh quyền im lặng của bị can bị cáo

Một số lưu ý

  • Quyền im lặng được thực hiện là cơ sở bảo vệ quyền con người, ngăn chặn tình trạng bức cung, nhục hình, các sai phạm trong tố tụng hình sự của các chủ thể tiến hành tố tụng. Do đó, đây chính là cơ sở để bị can, bị cáo theo dõi, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
  • Trên thực tế, trong quá trình lấy lời khai, nhiều bị can, bị cáo cho rằng việc khai báo theo hướng của cơ quan điều tra và nhận mình có tội sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ là hiểu không đúng. Bởi lẽ lời khai, lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Cơ quan tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Trường hợp bị can, bị cáo khai báo đầy đủ tuy nhiên không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, lời khai mang tính chất gian dối, bị can, bị cáo cũng không được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo.

>>>Xem thêm: Công việc luật sư phải làm khi nhận bào chữa cho bị cáo trong vụ án hình sự

Mặc dù, quyền im lặng của bị can, bị cáo chưa được quy định cụ thể trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bị can bị cáo có quyền im lặng trong vụ án hình sự và cần sự hiểu rõ về bản chất của quyền này để sử dụng nó hợp lý và hiệu quả.Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về Quyền im lặng của bị can bị cáo trong vụ án hình sự. Nếu quý đọc giả còn thắc mắc liên quan đến vấn đề này hoặc có nhu cầu TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ, vui lòng liên hệ qua HOTLINE: 1900.63.63.87 để được hỗ trợ

Chuyên viên pháp lý Tham vấn Luật sư: Hà Ngọc Tuyền - Tác giả: Trần Hạo Nhiên

Trần Hạo Nhiên - Chuyên viên pháp lý tại Công ty Luật Long Phan PMT. Chuyên tư vấn các vấn đề pháp luật về hình sự, đại diện làm việc với các cơ quan chức năng, cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ lợi ích hợp pháp của thân chủ.

Lưu ý: Nội dung bài viết công khai tại website của Luật Long Phan PMT chỉ mang tính chất tham khảo về việc áp dụng quy định pháp luật. Tùy từng thời điểm, đối tượng và sự sửa đổi, bổ sung, thay thế của chính sách pháp luật, văn bản pháp lý mà nội dung tư vấn có thể sẽ không còn phù hợp với tình huống Quý khách đang gặp phải hoặc cần tham khảo ý kiến pháp lý. Trường hợp Quý khách cần ý kiến pháp lý cụ thể, chuyên sâu theo từng hồ sơ, vụ việc, vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua các phương thức bên dưới. Với sự nhiệt tình và tận tâm, Chúng tôi tin rằng Luật Long Phan PMT sẽ là nơi hỗ trợ pháp lý đáng tin cậy của Quý khách hàng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

o

  Miễn Phí: 1900.63.63.87