Thẩm quyền ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can

Thẩm quyền ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can là chủ thể theo quy định của pháp luật hình sự có quyền ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn với bị can. Việc thay đổi biện pháp ngăn chặn sẽ căn cứ vào biện pháp ngăn chặn khác phù hợp với việc điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin liên quan đến việc thay đổi biện pháp ngăn chặn, thẩm quyền ra quyết định và thủ tục thực hiện.

Thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị canThay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can

Quy định pháp luật về thay đổi biện pháp ngăn chặn

Có những biện pháp ngăn chặn nào theo tố tụng hình sự?

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, pháp luật đặt ra các biện pháp ngăn chặn gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Cơ sở pháp lý: Điều 109 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015

Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố

Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn được pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Theo quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn áp dụng đối với biện pháp ngăn chặn trên là không quá 12 giờ kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.

Thứ hai, đối với tạm giữ.

Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.

Thứ ba, đối với tạm giam.

Trong giai đoạn điều tra điều tra

Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Thời hạn trên có thể được gia hạn nếu thuộc vào một trong các trường hợp được quy định tại khoản 2, 5, 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Trong giai đoạn truy tố

Theo quy định tại Điều 241 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn tạm giam không quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.

Thời hạn trên có thể được gia hạn, nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 278 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn tạm giam không quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án.

Thời hạn trên có thể được gia hạn nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ tư, đối với bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

Theo quy định tại Điều 121, Điều 122, Điều 123, Điều 124 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên không vượt quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Điều kiện thay đổi biện pháp ngăn chặn

Căn cứ theo khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, biện pháp ngăn chặn có thể được thay đổi khi thỏa mãn một trong các điều kiện sau:

  • Có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
  • Không còn căn cứ về việc bị bị can tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hoặc người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án.

Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định.

Qua đó, biện pháp ngăn chặn được áp dụng cho bị can sẽ được chuyển từ tạm giam sang một trong các biện pháp ngăn chặn sau:

Thứ nhất, điều kiện về bảo lĩnh

Một, căn cứ theo Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can phải thỏa mãn các điều kiện sau:

  • Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đủ căn cứ cho rằng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can có thể áp dụng biện pháp bảo lĩnh;
  • Phải có ít nhất 02 người có quan hệ thân thích của bị can đứng ra bảo lĩnh;
  • Cá nhân đứng ra bảo lĩnh phải là người đủ 18 tuổi trở lên, có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh;
  • Bị can được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 như: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;
  • Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan về việc không để bị can vi phạm nghĩa vụ được quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và giấy cam đon trên phải có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.

Hai, căn cứ theo Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, tổ chức nhận bảo lĩnh cho bị can phải thỏa mãn các điều kiện sau:

  • Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đủ căn cứ cho rằng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can có thể áp dụng biện pháp bảo lĩnh;
  • Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh cho bị can chỉ khi họ là người của cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh;
  • Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức;
  • Bị can được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 như: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
  • Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan về việc không để bị can vi phạm nghĩa vụ được quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và giấy cam đon trên phải có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.

>>> Xem thêm: Bảo lĩnh cho bị can, bị cáo được tại ngoại trong trường hợp nào?

Thứ hai, đặt tiền để bảo đảm

Căn cứ theo quy định tại Điều 122 Bộ luật tố tụng Hình sự 201, Điều kiện đặt tiền để đảm bảo cho bị can được quy định như sau:

  • Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đủ căn cứ cho rằng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân, tình trạng tài sản của bị can có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
  • Quyết định đặt tiền để bảo đảm do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp ban hành phải được Viện kiểm sát Nhân dân cùng cấp phê chuẩn.
  • Bị can được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 như: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;
  • Trong trường hợp người thân thích của bị can đặt tiền để bảo đảm cho bị can thì người đó phải làm giấy cam đoan không để bị can vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Thứ ba, cấm đi khỏi nơi cư trú

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, nếu bị can là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu hoặc người bị bệnh nặng, có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, cơ quan có thẩm quyền có thể thay thế tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Điều này có nghĩa là, thay vì tạm giam bị can, cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng biện pháp cấm bị can rời khỏi nơi cư trú. Biện pháp này nhằm đảm bảo quyền lợi và điều kiện sống tốt nhất cho phụ nữ mang thai, người nuôi con nhỏ, người già yếu và người bị bệnh nặng trong quá trình xét xử hình sự.

>>>Xem thêm: Điều kiện để bị can, bị cáo được tại ngoại

Ai có thẩm quyền ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn

Theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn là:

  • Cơ quan điều tra;
  • Viện kiểm sát;
  • Tòa án.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền điều chỉnh biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội.

Tuy nhiên, trong trường hợp các biện pháp ngăn chặn được phê chuẩn bởi Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, quyết định về việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải được Viện kiểm sát quyết định.

Thẩm quyền thay đổi biện pháp ngăn chặnThẩm quyền thay đổi biện pháp ngăn chặn

Luật sư tư vấn thay đổi đổi biện pháp ngăn chặn

Luật Long Phan PMT cung cấp đến Quý khách hàng dịch vụ tư vấn thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bị can như sau:

  • Tư vấn các quy định chung về pháp luật hình sự, các thủ tục tố tụng hình sự.
  • Tham gia các buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can tránh trường hợp bị ép cung, bức cung
  • Tư vấn về điều kiện thay đổi biện pháp ngăn chặn cho khách hàng
  • Soạn thảo đơn đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn để tại ngoại
  • Tư vấn và hỗ trợ thu thập tài liệu chứng cứ để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng
  • Hỗ trợ khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn trái pháp luật.

Luật sự tư vấn về yêu cầu xin thay đổi biện pháp ngăn chặnLuật sự tư vấn về yêu cầu xin thay đổi biện pháp ngăn chặn

Trong vụ án hình sự, thẩm quyền ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can sẽ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đồng thời, quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn phải dựa trên các điều kiện như tính chất và mức độ của tội phạm, tình trạng của bị can, sự cần thiết và tỷ lệ phù hợp của biện pháp ngăn chặn. Như vậy, nếu Quý độc giả còn thắc mắc  về thẩm quyền và điều kiện thay đổi biện pháp ngăn chặn với bị can, bị cáo hoặc cần sử dụng dịch vụ luật sư hình sự, hãy liên hệ qua hotline 1900.63.63.87 để được hỗ trợ kịp thời nhé.

Scores: 4.9 (63 votes)

Tham vấn Luật sư: Hà Ngọc Tuyền - Tác giả: Trần Hạo Nhiên

Trần Hạo Nhiên - Chuyên viên pháp lý tại Công ty Luật Long Phan PMT. Chuyên tư vấn các vấn đề pháp luật về hình sự, đại diện làm việc với các cơ quan chức năng, cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ lợi ích hợp pháp của thân chủ.

Lưu ý: Nội dung bài viết công khai tại website của Luật Long Phan PMT chỉ mang tính chất tham khảo về việc áp dụng quy định pháp luật. Tùy từng thời điểm, đối tượng và sự sửa đổi, bổ sung, thay thế của chính sách pháp luật, văn bản pháp lý mà nội dung tư vấn có thể sẽ không còn phù hợp với tình huống Quý khách đang gặp phải hoặc cần tham khảo ý kiến pháp lý. Trường hợp Quý khách cần ý kiến pháp lý cụ thể, chuyên sâu theo từng hồ sơ, vụ việc, vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua các phương thức bên dưới. Với sự nhiệt tình và tận tâm, Chúng tôi tin rằng Luật Long Phan PMT sẽ là nơi hỗ trợ pháp lý đáng tin cậy của Quý khách hàng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

o

  Miễn Phí: 1900.63.63.87

Kênh bong đa truc tuyen Xoilacz.co luck8