Trưng cầu giám định hình sự là một hoạt động tố tụng được cơ quan tiến hành tố tụng quyết định thực hiện nhằm xác định những tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự, có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh tội phạm. Quá trình này đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về trình tự, thủ tục để đảm bảo tính khách quan và chính xác của kết luận giám định trong hoạt động tố tụng hình sự. Bài viết dưới đây của Luật Long Phan PMT sẽ phân tích rõ trình tự, thủ tục thực hiện trưng cầu giám định hình sự theo quy định hiện hành.

Khi nào cần trưng cầu giám định hình sự?
Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
- Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
- Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
- Nguyên nhân chết người;
- Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động;
- Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
- Mức độ ô nhiễm môi trường.
Ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 như trên thì đương sự hoặc người đại diện của họ còn có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo Điều 207 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Trình tự, thủ tục thực hiện trưng cầu giám định hình sự
Quá trình trưng cầu giám định cần được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định để đảm bảo sự chuẩn xác và tính khách quan cho kết quả giám định.
Ban hành quyết định trưng cầu giám định
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ tự mình ra quyết định trưng cầu giám định khi thuộc một trong các trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định quy định tại Điều 206 hoặc khi xét thấy cần thiết các yêu cầu của đương sự tại Điều 207 Bộ luật này.
Đối với các yêu cầu của đương sự đề nghị trưng cầu giám định, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.
Đối với đề nghị trưng cầu giám định của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định.
Nội dung của quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ:
- Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định;
- Tên tổ chức; họ tên người được trưng cầu giám định;
- Tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định;
- Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);
- Nội dung yêu cầu giám định;
- Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 và khoản 2 Điều 205, khoản 1 Điều 207, khoản 1 Điều 214 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Thông báo về việc tiến hành trưng cầu giám định cho các đương sự và bên liên quan
Sau khi ban hành quyết định trưng cầu giám định, cơ quan ra quyết định phải thông báo bằng văn bản cho đương sự và các bên liên quan về việc tiến hành trưng cầu giám định để bảo đảm quyền giám sát, phản biện. Việc thông báo này là cần thiết trong các vụ án có tranh chấp lớn, phức tạp, hoặc có yêu cầu đối chất, phản bác kết luận giám định.
Gửi quyết định trưng cầu giám định và thành phần hồ sơ cùng đối tượng giám định cho cơ quan giám định
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, theo khoản 3 Điều 205 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Tổ chức giám định thực hiện việc giám định
Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết. Việc giám định do cá nhân hoặc do tập thể thực hiện.
Tổ chức giám định có trách nhiệm thực hiện việc giám định theo đúng yêu cầu của quyết định trưng cầu và tuân thủ các quy trình kỹ thuật chuyên môn. Giám định viên phải có đủ năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, và được cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định pháp luật. Quá trình giám định phải được thực hiện khách quan, độc lập, không chịu sự can thiệp của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào ngoài quy định pháp luật.
Thời hạn giám định được quy định theo từng trường hợp, cụ thể như sau:
- Không quá 03 tháng đối với trường hợp tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
- Không quá 01 tháng đối với trường hợp: (i) Nguyên nhân chết người; (ii) Trường hợp mức độ ô nhiễm môi trường;
- Không quá 09 ngày đối với trường hợp: (i) Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; (ii) Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động; (iii) Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ.
Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn nêu trên thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định. Thời hạn giám định này cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung, giám định lại.
Cơ sở pháp lý: Điều 208, Điều 209 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Thông báo kết quả giám định
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận giám định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định phải gửi kết luận giám định cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Đối với bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được kết luận giám định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo kết luận giám định cho bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có liên quan.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 213, khoản 2 Điều 214 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
>> Xem thêm bài viết có liên quan trong từng trường hợp cụ thể:
- Thủ tục trưng cầu giám định sức khỏe khi bị làm nhục
- Thời gian giám định vết thương sau khi bị đánh là bao lâu?
- Giám định viên có được tiết lộ kết quả giám định cho người khác?
Quyền yêu cầu giám định lại, giám định bổ sung trong vụ án hình
Khi không đồng ý với kết quả giám định tư pháp, đương sự có quyền yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.
- Quyền yêu cầu giám định lại được thực hiện trong các trường hợp đương sự cho rằng kết luận giám định không chính xác, có sai sót hoặc không phù hợp với thực tế, nghi ngờ tính khách quan của giám định viên do thiếu khách quan hoặc không đủ năng lực, phát hiện vi phạm thủ tục giám định không tuân thủ đúng quy định pháp luật.
- Đối với quyền yêu cầu giám định bổ sung, đương sự có thể thực hiện khi kết luận giám định ban đầu chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó.
Để thực hiện các quyền này, đương sự phải có đơn yêu cầu bằng văn bản, nêu rõ lý do cụ thể và cung cấp các chứng cứ, tài liệu để chứng minh yêu cầu có cơ sở, việc yêu cầu có thể được thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhưng cần được thực hiện một cách hợp lý, không nhằm mục đích cố tình kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Cơ quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu bao gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Căn cứ để chấp thuận yêu cầu giám định lại là yêu cầu có căn cứ hợp lý và cần thiết, kết quả giám định có dấu hiệu không chính xác hoặc mâu thuẫn, việc giám định lại có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan và không nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ án, còn đối với yêu cầu giám định bổ sung thì cần thiết để làm rõ những vấn đề chưa được giám định đầy đủ, phục vụ yêu cầu chứng minh của vụ án và có tính khả thi phù hợp với khả năng kỹ thuật.
Khi chấp thuận, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định giám định lại hoặc giám định bổ sung bằng văn bản, xác định cơ quan, tổ chức giám định phù hợp, đặt ra các câu hỏi giám định cụ thể và thông báo cho đương sự về quyết định theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; ngược lại khi không chấp thuận sẽ ra quyết định từ chối bằng văn bản với lý do rõ ràng và đương sự có quyền khiếu nại quyết định từ chối nếu có căn cứ.
Kết quả giám định lại hoặc giám định bổ sung khi được chấp thuận sẽ có giá trị pháp lý như giám định ban đầu, chi phí được xác định theo quy định pháp luật và có thể ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án, do đó đương sự cần cân nhắc kỹ lưỡng, có căn cứ thuyết phục, tham khảo ý kiến luật sư và chuẩn bị đầy đủ chứng cứ, tài liệu để hỗ trợ cho yêu cầu.
Đối với giám định lại trong trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.
Cơ sở pháp lý: Điều 210, Điều 211, Điều 212 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Giá trị của kết luận giám định trong việc giải quyết vụ án hình sự
Kết luận giám định được xem là nguồn chứng cứ theo điểm d khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 nếu:
- Được thực hiện theo đúng trình tự tại Điều 205 đến Điều 214 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
- Do tổ chức giám định có thẩm quyền và người giám định có chuyên môn phù hợp thực hiện;
- Có nội dung rõ ràng, sử dụng phương pháp khoa học, không mâu thuẫn với các chứng cứ khác.
Do đó, kết luận giám định hình sự có vị trí quan trọng trong hệ thống chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tuy nhiên, kết luận giám định không có giá trị ưu tiên tuyệt đối mà phải được đánh giá cùng với các chứng cứ khác trong vụ án. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu thập, kiểm tra, đánh giá và đối chiếu kết luận giám định với các tài liệu, chứng cứ khác để đưa ra kết luận khách quan về sự việc.
Tính thuyết phục của kết luận giám định phụ thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực chuyên môn của giám định viên, tính hiện đại của phương pháp và thiết bị sử dụng, độ bảo toàn của đối tượng giám định. Cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét kỹ lưỡng các yếu tố này khi sử dụng kết luận giám định làm căn cứ kết luận vụ án. Trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận giám định và các chứng cứ khác, cần có biện pháp kiểm tra, xác minh để làm rõ sự thật khách quan.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án có quyền yêu cầu giám định viên tham gia phiên tòa để giải thích, làm rõ những vấn đề liên quan đến kết luận giám định. Việc thẩm vấn giám định viên tại phiên tòa giúp Hội đồng xét xử và các đương sự hiểu rõ hơn về cơ sở khoa học của kết luận, từ đó đánh giá chính xác giá trị chứng minh của kết luận giám định. Kết luận giám định được Tòa án chấp nhận phải có căn cứ khoa học vững chắc và phù hợp với tình tiết khác của vụ án.
Do vậy, giá trị pháp lý của kết luận giám định phụ thuộc vào mức độ phù hợp với các chứng cứ khác và trình tự thực hiện. Đây là công cụ hỗ trợ hữu hiệu nhưng phải được sử dụng thận trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Dịch vụ luật sư liên quan đến trưng cầu giám định trong vụ án hình sự
Luật sư tại Luật Long Phan PMT có thể hỗ trợ Quý khách hàng trong các vấn đề sau:
- Tư vấn các vấn đề về trưng cầu giám định theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Soạn thảo đơn đề nghị yêu cầu trưng cầu giám định và các văn bản pháp lý liên quan.
- Tham gia phiên tòa với tư cách bào chữa cho bị cáo, bảo vệ cho bị hại.
- Hỗ trợ theo dõi, giám sát tiến độ giám định và đảm bảo đúng trình tự pháp luật.
- Phân tích, đánh giá kết luận giám định.
- Tư vấn các rủi ro pháp lý liên quan đến việc sử dụng kết luận giám định.
Kết luận
Việc thực hiện trưng cầu giám định hình sự đúng pháp luật là nền tảng để bảo vệ quyền lợi tố tụng của các bên và đảm bảo tính khách quan trong xử lý vụ án. Để được hỗ trợ tư vấn cụ thể về quyền yêu cầu giám định, Quý khách hàng vui lòng liên hệ Luật Long Phan PMT qua hotline 1900.63.63.87 để được đội ngũ luật sư hình sự giàu kinh nghiệm hỗ trợ kịp thời.
Tags: giám định bổ sung, giám định tư pháp, Kết luận giám định, Luât sư hình sự, quyền yêu cầu giám định lại, thủ tục trưng cầu giám định, trưng cầu giám định hình sự, tư vấn pháp luật hình sự
Lưu ý: Nội dung bài viết công khai tại website của Luật Long Phan PMT chỉ mang tính chất tham khảo về việc áp dụng quy định pháp luật. Tùy từng thời điểm, đối tượng và sự sửa đổi, bổ sung, thay thế của chính sách pháp luật, văn bản pháp lý mà nội dung tư vấn có thể sẽ không còn phù hợp với tình huống Quý khách đang gặp phải hoặc cần tham khảo ý kiến pháp lý. Trường hợp Quý khách cần ý kiến pháp lý cụ thể, chuyên sâu theo từng hồ sơ, vụ việc, vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua các phương thức bên dưới. Với sự nhiệt tình và tận tâm, Chúng tôi tin rằng Luật Long Phan PMT sẽ là nơi hỗ trợ pháp lý đáng tin cậy của Quý khách hàng.