Thời hạn tạm giam có được trừ vào thời hạn hưởng án treo là vấn đề được quan tâm trong vụ án hình sự. Đó là trường hợp người bị tạm giam mà sau đó bị kết án phạt tù nhưng được cho hưởng án treo thì hội đồng xét xử trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời gian thử thách của án treo. Bài viết sau đây sẽ giải đáp vấn đề này theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thời gian tạm giam có được trừ vào thời gian thử thách án treo
Mục Lục
Quy định của pháp luật về án treo
Án treo là gì?
Căn cứ Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật về án treo (sau đây gọi là Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP), Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 cũng có quy định khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Như vậy, án treo không phải là hình phạt, mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, áp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá 03 năm.
Điều kiện hưởng án treo
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau:
Một là, bị xử phạt tù không quá 03 năm.
Hai là, Người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
- Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
- Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
- Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
Ba là, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017;
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bốn là, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục;
- Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định Luật Cư trú 2020 mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo;
- Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
Năm là, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, nếu đáp ứng được các điều kiện nêu trên, người bị phạt tù có thể được Tòa án cho hưởng án treo theo quy định pháp luật.
Cơ sở pháp lý: Điều 2 Nghị 02/2018/NQ-HĐTP, được sửa đổi bổ sung bởi Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP.
>>> Xem thêm: Án treo được áp dụng trong trường hợp nào?
Quy định về thời gian tạm giam
Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định như sau:
- Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
- Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng
- Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam theo quy định trên đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Trường hợp đặc biệt đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì việc gia hạn tạm giam được thực hiện như sau:
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng;
- Trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, khoản 2, khoản 5, khoản 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
>>> Xem thêm: Thời hạn tạm giam trong vụ án hình sự là bao lâu?
Thời gian tạm giam có được trừ vào thời hạn chấp hành án phạt để ấn định thời gian thử thách không?
Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Công văn số 58/TANDTC-PC ngày 06 tháng 5 năm 2021 về việc xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đã giải đáp về vấn đề về xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo với nội dung là đúng quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 và hướng dẫn tại Điều 4 của Nghị quyết số 02/2018/ NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo.
Điều 4a Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được bổ sung bởi khoản 3, Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án nhưng cho hưởng án treo đã bị tạm giữ, tạm giam. Thời gian đã tạm giữ, tạm giam đối với người bị kết án nhưng cho hưởng án treo không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù để ấn định thời gian thử thách. Trường hợp trong thời gian thử thách nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì khi giải quyết Tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào thời gian chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới.
Ngoài ra, Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Theo đó, thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Trường hợp trong thời gian thử thách, nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo, thì khi giải quyết,Tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới.
Như vậy, với quy định nêu trên thì thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo để ấn định thời gian thử thách.
>>> Xem thêm: Hưởng án treo mà vẫn vi phạm pháp luật thì bị xử lý như thế nào?
Không trừ thời gian tạm giam vào thời gian hưởng án treo
Rút ngắn thời gian thử thách của án treo
Người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau:
- Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;
- Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng;
- Được Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.
Theo đó, người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đầy đủ các điều kiện trên.
Ngoài ra, nếu người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện được hướng dẫn nêu trên, thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách còn lại. Trong đó:
Lập công là trường hợp người được hưởng án treo có hành động:
- Giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm;
- Cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị trên 50 triệu đồng của nhà nước, tập thể, công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn;
- Có sáng kiến được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, chiến đấu, công tác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng, xác nhận.
Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như:
- Ung thư giai đoạn cuối;
- Xơ gan cổ trướng;
- Lao nặng độ 4 kháng thuốc;
- Bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên;
- HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP
>>> Xem thêm: Điều kiện để được rút ngắn thời gian thử thách án treo
Dịch vụ luật sư tư vấn về án treo
Dịch vụ luật sư tư vấn về án treo sẽ tư vấn và giải đáp những vấn đề pháp lý sau:
- Tư vấn và giải đáp về điều kiện áp dụng án treo theo quy định pháp luật hình sự;
- Tư vấn và định hướng cách chứng minh các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nơi ở và nơi làm việc ổn định để đảm bảo việc ra phán quyết của tòa án về điều kiện hưởng án treo;
- Tư vấn và xác lập các chứng cứ cần thiết như: Bồi thường thiệt hại; Chứng minh nhân thân tốt (phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo,…) hoặc các bằng chứng có giá trị chứng minh khác;
- Tìm chứng cứ để bác bỏ tình tiết tăng nặng nếu đó là những tình tiết tăng nặng chưa chính xác do cơ quan tố tụng truy cứu sai;
- Luật sư tư vấn và hướng dẫn việc viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự;
- Luật sư tư vấn chứng minh các tình tiết ngoại phạm, xác lập các bằng chứng chứng minh vô tội hoặc các bằng chứng liên quan đến việc phạm tội do tinh thần bị kích động mạnh nhằm xác định các tình tiết định khung có lợi cho bị can bị cáo.
- Tham gia những buổi hỏi cung để giải thích rõ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo nên tận dụng như thành khẩn khai báo, tích cực hỗ trợ phá án… Ngoài ra còn giúp bị cáo tránh bị bức cung hoặc vướng phải những sai phạm của cơ quan tố tụng trong quá trình hỏi cung;
- Luật sư tranh luận bảo vệ quyền lợi thân chủ trong phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và soạn thảo các đơn từ cần thiết bảo vệ thân chủ.
Dịch vụ tư vấn pháp luật về án treo
Như vậy, hiện nay không có quy định về việc trừ thời gian tạm giam vào thời hạn hưởng án treo. Để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, người được hưởng án treo và gia đình có thể xin rút ngắn thời hạn thử thách của án treo khi đáp ứng các điều kiện luật định. Mọi vướng mắc pháp lý của người phạm tội hoặc thân nhân người phạm tội, hãy gọi ngay đến luật sư hình sự qua hotline 1900.63.63.87 để được luật sư tư vấn và giải đáp tận tình.
Lưu ý: Nội dung bài viết công khai tại website của Luật Long Phan PMT chỉ mang tính chất tham khảo về việc áp dụng quy định pháp luật. Tùy từng thời điểm, đối tượng và sự sửa đổi, bổ sung, thay thế của chính sách pháp luật, văn bản pháp lý mà nội dung tư vấn có thể sẽ không còn phù hợp với tình huống Quý khách đang gặp phải hoặc cần tham khảo ý kiến pháp lý. Trường hợp Quý khách cần ý kiến pháp lý cụ thể, chuyên sâu theo từng hồ sơ, vụ việc, vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua các phương thức bên dưới. Với sự nhiệt tình và tận tâm, Chúng tôi tin rằng Luật Long Phan PMT sẽ là nơi hỗ trợ pháp lý đáng tin cậy của Quý khách hàng.