Điều kiện để giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cần phải nắm để đảm bảo quyền và lợi ích của mình khi không may bị vướng phải lao lý. Điều kiện này được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Bài viết dưới đây, sẽ thông tin đến bạn đọc các điều kiện và cách thức giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Giảm hình phạt dưới thấp nhất của khung hình phạt
Mục Lục
Tổng hợp Hình phạt theo Bộ luật hình sự
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
Đối với hình phạt chính:
- Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
- Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;
- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;
- Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
- Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác.
Đối với hình phạt bổ sung:
- Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
- Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Đối với trường hợp tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội thực hiện nhiều tội phạm khác nhau, Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định như sau:
- Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự 2015. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự 2015.
- Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.
>>>Xem thêm: Xác định khung hình phạt khi bị can vừa có tình tiết tăng nặng vừa có tình tiết giảm nhẹ trong vụ án hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hiểu là các chi tiết được cân nhắc để giảm nhẹ mức xử phạt. Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;”;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
>>Xem thêm: Những Tình Tiết Giảm Nhẹ Trong Vụ Án Hình Sự
Tự thú, đầu thú có được giảm nhẹ hình phạt không?
Giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung cần đáp ứng điều kiện nào?
Căn cứ Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), việc giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định như sau:
- Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
- Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
- Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Như vậy, muốn được giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải thỏa mãn ít nhất một trong các điều kiện sau:
- Có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
- Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Luật sư hình sự tư vấn điều kiện giảm mức hình phạt
Luật Long Long Phan PMT cung cấp đến Quý khách hàng dịch luật sư tư vấn điều kiện giảm mức hình phạt như sau:
- Tư vấn quy định pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
- Tư vấn về các trường hợp giảm mức hình phạt;
- Tư vấn điều kiện giảm hình phạt xuống mức thấp nhất của khung hình phạt
- Tư vấn cách xin hưởng án treo trong vụ án hình sự
- Luật sư tham gia bào chữa giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo;
- Luật sư hỗ trợ soạn thảo đơn từ, thu thập các tài liệu chứng cứ để giảm nhẹ hình phạt
- Tư vấn các vấn đề khác có liên quan.
Luật sư hình sự tư vấn
>>>Xem thêm: Công việc luật sư phải làm khi nhận bào chữa cho bị cáo
Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định rõ các trường hợp người phạm tội có thể được Tòa án giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Bên cạnh đó, bài viết cũng đã cung cấp các thông tin liên quan đến tổng hợp hình phạt để Quý độc giả hiểu rõ được vấn đề. Nếu Quý độc giả còn thắc mắc thêm về vấn đề trên hoặc cần được LUẬT SƯ HÌNH SỰ tư vấn, hỗ trợ hãy liên hệ với chúng tôi qua Hotline 1900.63.63.87 để được tư vấn, hỗ trợ kịp thời.
Lưu ý: Nội dung bài viết công khai tại website của Luật Long Phan PMT chỉ mang tính chất tham khảo về việc áp dụng quy định pháp luật. Tùy từng thời điểm, đối tượng và sự sửa đổi, bổ sung, thay thế của chính sách pháp luật, văn bản pháp lý mà nội dung tư vấn có thể sẽ không còn phù hợp với tình huống Quý khách đang gặp phải hoặc cần tham khảo ý kiến pháp lý. Trường hợp Quý khách cần ý kiến pháp lý cụ thể, chuyên sâu theo từng hồ sơ, vụ việc, vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua các phương thức bên dưới. Với sự nhiệt tình và tận tâm, Chúng tôi tin rằng Luật Long Phan PMT sẽ là nơi hỗ trợ pháp lý đáng tin cậy của Quý khách hàng.